Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những mốc son chói lọi nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam), nhân dân ta đã vùng lên làm cuộc tổng khởi nghĩa, đập tan ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật, giành chính quyền về tay nhân dân chỉ trong vòng vài tuần lễ. Sự kiện này không chỉ mở ra một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội – mà còn đặt nền móng cho mọi thắng lợi vẻ vang sau này của cách mạng Việt Nam.

Ý nghĩa lịch sử to lớn của Cách mạng Tháng Tám

Trước Cách mạng Tháng Tám, đất nước ta chịu cảnh "một cổ hai tròng", bị thực dân Pháp đô hộ và phát xít Nhật giày xéo. Nhân dân sống trong cảnh lầm than, đói khổ, mất nước. Sự kiện ngày 19/8/1945 tại Hà Nội đã đánh dấu bước ngoặt lịch sử khi chính quyền về tay nhân dân. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.

Cách mạng Tháng Tám đã chấm dứt hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp và gần 5 năm áp bức của phát xít Nhật. Nhân dân Việt Nam lần đầu tiên trở thành người làm chủ vận mệnh của mình. Đây cũng là thắng lợi đầu tiên của một dân tộc thuộc địa chống lại chủ nghĩa thực dân – mở đầu cho làn sóng giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latin.

Cách mạng Tháng Tám – Nền tảng cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam

Thành công của Cách mạng Tháng Tám không chỉ giành độc lập cho dân tộc mà còn để lại nhiều bài học quý báu về đường lối cách mạng, vai trò lãnh đạo của Đảng, và sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân. Chính từ nền tảng này, cách mạng Việt Nam đã từng bước vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách để tiếp tục giành những thắng lợi to lớn:

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946–1954): Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong bối cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”: chính quyền cách mạng còn non trẻ, thù trong giặc ngoài bủa vây, kinh tế kiệt quệ, giặc đói – giặc dốt – giặc ngoại xâm cùng lúc hoành hành. Trong bối cảnh đó, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám có vai trò đặc biệt to lớn, khẳng định vai trò chủ thể của dân tộc Việt Nam: Nhờ Cách mạng Tháng Tám, nhân dân ta có chính quyền của riêng mình. Đây là cơ sở pháp lý, chính trị để Việt Nam đứng lên bảo vệ nền độc lập, khẳng định chủ quyền dân tộc với thế giới – điều quan trọng trong bối cảnh Pháp âm mưu quay lại xâm lược. Tạo ra chính quyền cách mạng làm chỗ dựa cho kháng chiến: Chính phủ Hồ Chí Minh do nhân dân lập ra đã tập hợp sức mạnh đại đoàn kết, phát động toàn dân kháng chiến. Chính quyền cách mạng non trẻ tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng nhờ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân nên đã nhanh chóng ổn định tình hình và lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến toàn diện và lâu dài. Khơi dậy tinh thần yêu nước, độc lập dân tộc: Khí thế giành chính quyền năm 1945 như một đòn thức tỉnh, cổ vũ lòng yêu nước và tinh thần quật khởi của toàn dân. Nhờ đó, dù sau đó Pháp quay lại tái xâm lược, nhân dân ta đã không hề khuất phục, mà quyết tâm chiến đấu tới cùng. Với tinh thần độc lập từ Cách mạng Tháng Tám, nhân dân ta đã anh dũng chiến đấu và làm nên nhiều chiến thắng quan trọng trong giai đoạn này, có thể kể đến như:

 Chiến thắng Việt Bắc Thu – Đông (1947), Pháp mở cuộc tấn công lớn lên chiến khu Việt Bắc nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não của ta. Quân dân ta đập tan chiến dịch của Pháp, bảo vệ an toàn cơ quan đầu não của Đảng và Chính phủ. Đây là thắng lợi đầu tiên quy mô lớn của quân dân ta, làm thất bại âm mưu “đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp, khẳng định khả năng tổ chức chiến tranh nhân dân của ta.

Chiến thắng Biên giới Thu – Đông (1950), ta tấn công các cứ điểm của Pháp ở vùng biên giới Cao Bằng – Đông Khê, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng một vùng rộng lớn biên giới Việt – Trung, mở ra bước ngoặt quyết định trong kháng chiến, phá thế bao vây, khai thông con đường quốc tế với Trung Quốc và các nước XHCN, ạo điều kiện tiếp nhận viện trợ, đẩy mạnh chiến tranh chính quy.

Chiến dịch Trung du và Đường số 18 (1951), Hòa Bình (1951–1952), làm tiêu hao lớn lực lượng Pháp, là bước tập dượt cho các chiến dịch lớn hơn sau này.

Chiến thắng Tây Bắc (1952) và Thượng Lào (1953), đã mở rộng vùng giải phóng, củng cố liên minh chiến đấu Việt – Lào.

Chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) – Đỉnh cao của kháng chiến chống Pháp, quân ta công phá tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của Pháp tại Điện Biên Phủ, tiêu diệt hoàn toàn 16.200 quân địch, bắt sống tướng De Castries, chấm dứt chiến dịch, đập tan hoàn toàn ý chí xâm lược của Pháp, buộc Pháp phải ký Hiệp định Genève (7/1954), công nhận độc lập, chủ quyền của Việt Nam.

Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1954–1975): Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, đất nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền. Đế quốc Mỹ nhanh chóng thay chân thực dân Pháp, dựng nên chính quyền tay sai ở miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới. Trước tình hình đó, nhân dân ta tiếp tục bước vào cuộc kháng chiến mới, kéo dài hơn 20 năm, đầy gian khổ nhưng cũng vô cùng oanh liệt. Vai trò của Cách mạng Tháng Tám với cuộc kháng chiến chống Mỹ càng rõ rệt ở nhiều khía cạnh, khẳng định tính chính danh và liên tục của chính quyền cách mạng: Cách mạng Tháng Tám đã thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước của dân, do dân và vì dân. Sau năm 1954, chính quyền cách mạng ở miền Bắc tiếp tục là hậu phương vững chắc, đồng thời là hình mẫu cho cách mạng miền Nam noi theo. Tạo nên truyền thống đấu tranh bất khuất, tinh thần cách mạng tiến công: Những bài học từ Cách mạng Tháng Tám – nhất là về chớp thời cơ, tổ chức lực lượng, phát động toàn dân, kết hợp đấu tranh chính trị với vũ trang – đã được vận dụng sáng tạo trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đặc biệt là trong các phong trào như Đồng Khởi (1959–1960), Tết Mậu Thân (1968), và cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1975. Khơi dậy lòng tin và ý chí tất thắng vào con đường cách mạng: Nếu năm 1945, dân tộc Việt Nam đã từng đứng lên giành độc lập chỉ với hai bàn tay trắng, thì hoàn toàn có thể tin tưởng vào thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ. Cách mạng Tháng Tám trở thành điểm tựa tinh thần, là bằng chứng sống động về sức mạnh vô địch của nhân dân khi được Đảng lãnh đạo. Từ kinh nghiệm xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng sau năm 1945, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, và giành được nhiều thắng lợi quan trọng:

Phong trào Đồng Khởi (1959–1960) tại bến Tre, Nhân dân miền Nam nổi dậy khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền ở nông thôn, đánh dấu bước chuyển từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh vũ trang ở miền Nam, dẫn đến sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (1960).

Chiến thắng Ấp Bắc (1963), quân du kích miền Nam đánh bại một cuộc càn quét lớn của quân đội Sài Gòn và cố vấn Mỹ, khẳng định quân Giải phóng có thể đánh thắng quân đội tay sai được Mỹ hậu thuẫn, cổ vũ phong trào đấu tranh vũ trang ở miền Nam.

Chiến thắng Vạn Tường (1965), quân giải phóng miền Nam đánh bại cuộc hành quân lớn của lính thủy đánh bộ Mỹ tại Quảng Ngãi, chấm dứt ảo tưởng "chiến tranh cục bộ", chứng minh quân Mỹ không phải "bất khả chiến bại".

Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), quân dân miền Nam đồng loạt tấn công vào hơn 100 đô thị, trung tâm đầu não của địch; là cú sốc lớn đối với Mỹ, làm lung lay ý chí xâm lược, dẫn đến Mỹ ngừng ném bom miền Bắc, chấp nhận đàm phán tại Paris, tạo chuyển biến trong dư luận quốc tế và nước Mỹ.

Chiến thắng Đường 9 – Nam Lào (1971), đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, thể hiện sự phối hợp tác chiến 3 nước Việt – Lào – Campuchia.

Chiến dịch "Điện Biên Phủ trên không" (12/1972), quân dân miền Bắc đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng B-52 vào Hà Nội, Hải Phòng, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris (1/1973), rút hết quân Mỹ khỏi Việt Nam, khẳng định sức mạnh phòng không Việt Nam và bản lĩnh kiên cường của nhân dân.

Chiến dịch Hồ Chí Minh – Đại thắng mùa Xuân 1975, quân ta tấn công thần tốc, giải phóng Sài Gòn vào trưa 30/4, kết thúc thắng lợi kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, thống nhất, đi lên CNXH.

Cách mạng Tháng Tám không chỉ là đỉnh cao của phong trào cách mạng dân tộc mà còn là nền tảng chính trị, tinh thần, tổ chức cho 2 cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ nhưng vô cùng vinh quang của dân tộc Việt Nam. Không có Cách mạng Tháng Tám, sẽ không có chính quyền cách mạng, không có ý chí độc lập mạnh mẽ, không có bài học lớn về chiến lược và đoàn kết toàn dân. Có thể khẳng định, mọi thắng lợi sau này – từ Điện Biên Phủ đến Đại thắng Mùa Xuân – đều bắt nguồn từ mùa thu lịch sử năm 1945.

 

 


Đánh giá:

lượt đánh giá: , trung bình:



 Liên kết website
Thống kê: 11.426.562
Online: 69