Ngày 5-6-1911, tại Bến cảng Nhà Rồng, với bản lĩnh của một người yêu nước cùng nhãn quan chính trị thiên tài, Nguyễn Tất Thành - người thanh niên ưu tú của dân tộc đã bước chân lên con tàu Latouche-Treville khởi đầu cho hành trình tìm đường cứu nước. Với ý chí và nghị lực phi thường, Nguyễn Tất Thành đã vượt qua tất cả những khó khăn, gian khổ trong hành trình bôn ba qua 3 đại dương, 4 châu lục, hơn 30 quốc gia và các vùng lãnh thổ, qua hàng trăm thành phố lớn nhỏ, để tìm con đường cách mạng cho dân tộc Việt Nam. Giờ đây, Bác đã đi xa nhưng sự kiện lịch sử ngày 5-6-1911 “Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước” mãi in đậm trong tâm trí người dân trong nước và bè bạn trên thế giới.

 Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước của vùng đất xứ Nghệ giàu truyền thống cách mạng, với trí thông minh và sự mẫn cảm về chính trị, ngay từ nhỏ Nguyễn Tất Thành đã sớm nhận ra cảnh đất nước lầm than đắm chìm trong nô lệ. Trong bối cảnh đầu thế kỉ XX, dưới ách thống trị của chế độ thực dân phong kiến, chứng kiến nền độc lập của dân tộc bị xâm phạm, cảnh nhân dân ta “Một cổ hai tròng” chịu nhiều lầm than, cực khổ, bị chà đạp, áp bức, bóc lột tàn bạo, đã có rất nhiều phong trào yêu nước của các văn thân sĩ phu yêu nước nổ ra như phong trào Cần Vương, cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Yên Thế, phong trào Duy Tân của Phan Chu Trinh, phong trào Đông kinh nghĩa thục của Phan Bội Châu…nhưng tất cả đều thất bại. Ý chí quyết định đi ra nước ngoài tự mình tìm con đường cứu nước, cứu dân đã hình thành trong tư tưởng của người thiếu niên yêu nước Nguyễn Tất Thành.      

Năm 1905, Nguyễn Tất Thành được cha là ông Nguyễn Sinh Huy xin cho theo học lớp dự bị trường Tiểu học Pháp - Việt ở Vinh. Tại trường này, lần đầu tiên Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc với khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” và tìm thấy sức hấp dẫn của những mỹ từ mà người Pháp đã tuyên truyền. Nguyễn Tất Thành sớm nhận ra con đường do những người đi trước mở ra sẽ không giải phóng được dân tộc mà cần thiết phải có con đường mới phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc; phải ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước độc lập phát triển như thế nào để trở về giúp đồng bào ta, đất nước ta thoát khỏi cảnh áp bức, nô lệ. Nung nấu quyết tâm đi tìm một con đường cứu nước mới, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành đã đi bộ từ Phan Thiết, vượt qua những khó khăn khắc nghiệt của thời tiết, nhiều khi lả đi vì đói, vì mệt, vì khát để tới Sài Gòn, tìm cơ hội thực hiện ý định cháy bỏng đó. Đây chính là bước ngoặt quan trọng, mở đầu cho quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành. Đến Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành nhanh chóng tìm được một trường kỹ thuật do Pháp quản lý, ở đó thủy thủ Việt Nam được dạy về hàng hải, về giao thông vận chuyển hàng… Trong những ngày đó, anh thường xuyên đến bến cảng Sài Gòn. Và ngày 5/6/1911, trên con tàu Amiral La Touche De Tréville từ cảng Sài Gòn, tự giới thiệu là Văn Ba xin làm phụ bếp, Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc, bắt đầu cuộc hành trình 30 năm tìm con đường giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Vào thời điểm đó, không ai biết rằng vận mệnh của dân tộc Việt Nam đã gắn liền với quyết định ra đi của một con người mà lịch sử đã chứng tỏ là sáng suốt phi thường.

Trong vòng 10 năm, từ năm 1911 đến năm 1920, Người đã tận dụng mọi cơ hội để được đến nhiều nơi trên thế giới. Bàn chân của Người đã từng in dấu trên nhiều nước thuộc các đại lục Âu, Á, Phi, Mỹ. Đặc biệt Người đã dừng chân khảo sát khá lâu ở 3 nước đế quốc lớn nhất thời đó là Mỹ, Anh và Pháp. Người tranh thủ mọi điều kiện để học hỏi, nghiên cứu các học thuyết cách mạng, hòa mình vào thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản và thuộc địa. Trên cơ sở đó, Người đã rút ra kết luận có tính chất căn bản đầu tiên: “Ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề”, và “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”. Những nhận biết căn bản đó càng thôi thúc Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc quyết tâm tìm ra phương hướng giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc. Hành trang duy nhất Người mang theo khi lên tàu thủy ra nước ngoài là chủ nghĩa yêu nước - sản phẩm tinh thần cao đẹp của lịch sử Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Tư tưởng yêu nước của Người vừa kế thừa tinh hoa của chủ nghĩa yêu nước truyền thống, vừa bao hàm một tinh thần đổi mới phù hợp với yêu cầu giải phóng dân tộc và xu thế của thời đại.   

           Qua những lần khảo cứu, tìm kiếm con đường đấu tranh đòi tự do, bình đẳng cho nhân dân An Nam bất thành, tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đã được đọc nội dung bản của “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lê-nin đăng trên Báo Nhân Đạo, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Pháp. Người lập tức bị cuốn hút và đọc đi đọc lại nhiều lần. Qua lăng kính của chủ nghĩa yêu nước chân chính, Người tìm thấy ở đó con đường đúng đắn giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân. Luận cương của Lê-nin đã mở ra cho Nguyễn Ái Quốc một nhận thức mới về con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam. Người thốt lên rằng: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Luận cương của V.I.Lê-nin đã mở ra con đường đưa Nguyễn Ái Quốc đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin và chính Luận cương của Lê-nin đã tạo ra bước ngoặt căn bản về chất trong sự phát triển nhận thức, tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc: từ chủ nghĩa yêu nước đến Chủ nghĩa Mác - Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành người cộng sản. Sau khi đã xác định con đường cần thiết cho dân tộc, bằng hoạt động thực tiễn của mình Nguyễn Ái Quốc đã tích cực nghiên cứu, tìm hiểu, bổ sung, phát triển và truyền bá con đường cách mạng vô sản vào Việt Nam. Thành công bước đầu của quá trình truyền bá con đường cách mạng vô sản là sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930 - nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

 Ngày 28-1-1941, Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đã chính thức trở về sau một hành trình vĩ đại 30 năm. Người đã trực tiếp cùng Đảng Cộng sản Việt Nam hoàn chỉnh đường lối cách mạng, lãnh đạo Nhân dânViệt Nam vùng lên đấu tranh làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra một thời đại mới trong lịch sử quang vinh của dân tộc - Thời đại Hồ Chí Minh. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thành công đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam; chứng minh sự lãnh đạo tài tình, đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, rèn luyện.

 Tròn 111 năm (05/6/1911- 05/6/2022 ) ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, lịch sử ngày càng lùi xa nhưng với tất cả cống hiến lớn lao của Người trong hành trình đặc biệt đó đã trở thành tài sản to lớn của dân tộc Việt Nam. Suốt cuộc đời vì nước vì dân, vì nước, di sản vô giá mà Người để lại cho Tổ quốc ta, nhân dân ta chính là tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh sáng ngời cùng thời gian. Một nhân cách lớn, một tấm gương về sự ham học hỏi, lòng nhân hậu, bác ái, là biểu tượng cao đẹp đầy tự hào của dân tộc Việt Nam trước bạn bè quốc tế năm châu. Dù Người đã đi xa, nhưng Đảng ta, dân tộc ta nguyện sẽ mãi mãi học tập và làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người, xây dựng thành công Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


Đánh giá:

lượt đánh giá: , trung bình:



 Liên kết website
Thống kê: 10.162.268
Online: 47