Văn hóa của người Khơ Mú khá nổi bật với các lễ hội như: Lễ cầu mưa, lễ cầu mùa, lễ cúng bản, lễ mừng cơm mới...Trong các lễ hội đã thể hiện tập quán xã hội và tín ngưỡng của người Khơ Mú. Họ theo tín ngưỡng đa thần, cuộc sống của người Khơ Mú chủ yếu dựa vào nương rẫy, gieo trồng bằng kỹ thuật thủ công nên mong muốn các thần linh phù hộ để dân bản được mùa, có cuộc sống no đủ, hạnh phúc. Bởi lẽ đó người Khơ Mú đã duy trì các lễ hội truyền thống từ đời này sang đời khác nhằm duy trì tục thờ cúng tổ tiên và các thần linh - các đấng siêu nhiên mà họ gọi đó là ma tổ tiên, ma rừng, ma núi, ma sông, ma suối, ma đất, ma trời...
Sau các nghi lễ ấy là cuộc vui của cộng đồng, mọi người cùng nhau nhảy múa và thắp lên những niềm tin lẫn hy vọng về cuộc sống tốt đẹp của ngày mai. Cũng vì lẽ đó cộng đồng người Khơ Mú đã thực hành, phát huy các lễ hội truyền thống và cùng nhau sáng tạo nên những điệu múa gắn với nghi lễ, gắn với đời sống sinh hoạt mà người Khơ Mú gọi là “tẹ” mang nội dung về sự đoàn kết, gắn bó, nỗ lực của con người trước thiên nhiên; về cuộc sống lao động, sản xuất, vì sự ấm no của mỗi gia đình với cách thể hiện khỏe khoắn, sôi động và lạc quan. Trong đó nổi bật như: múa chiêng kết hợp với ống tre, ống nứa (Tẹ ôm đing); múa đánh đao (tẹ tăm đao); múa sạp (tẹ khiêps); múa chọc lỗ tra hạt (tẹ chư mon); múa lắc eo (tẹ cưn viết guông); múa cá lượn (tẹ gănr cạ); múa đuổi chim; múa vòng tròn (Tẹ kưn vong do). Thông qua các điệu múa, họ gửi gắm niềm tin, khát vọng về cuộc sống tốt đẹp và thể hiện nét văn hóa đặc trưng của người Khơ Mú ở Điện Biên.
Tẹ ôm đêng hoặc tẹ ôm đing (múa ống tre, ống nứa), có tên gọi khác là tẹ prin (múa trống), tẹ prapang (múa chiêng), múa dỗ ống, múa lên nhà mới, múa trong đám cưới; có nơi người Khơ Mú còn gọi là múa tăng bẳng, tăng bu.
Hiện nay, cộng đồng người Khơ Mú vẫn duy trì múa Tăng bẳng, tăng bu. Tăng bẳng là những ống tre thẳng, dài khoảng 1m - 1,5m, đường kính rộng 8 - 15 cm. Khi múa ở trong nhà, người ta cầm 02 tay 2 ống dỗ - rập xuống sàn nhà hay nếu múa ở không gian bên ngoài người ta kê một tấm ván dài đặt trên mặt đất để dỗ ống tạo âm thanh, cũng có khi người múa chỉ sử dụng 01 ống kết hợp những động tác tay không và sự uốn lượn mềm mại của cơ thể để múa. Hình thức múa có thể là nhún dỗ ống tại chỗ, nhún xoa ống, nhảy tiến lùi, nhảy xoay tại chỗ, dỗ ống nhảy ngang...Nhịp dỗ ống, người Khơ Mú thường dỗ 03 nhịp liên tiếp rồi nghỉ và cứ liên tiếp như vậy. Tăng bu dành cho nam múa, được làm từ những thân cây nứa có đốt dài và to, bên trong rỗng nhằm tạo âm thanh trong quá trình múa dỗ ống.
Đối với người Khơ Mú, tẹ ôm đing (hoặc múa tăng bẳng, tăng bu) là thể hiện sự hài hòa giữa nam và nữ, họ sóng đôi cùng múa một cách nhịp nhàng, đó còn là sự kết hợp giữa âm và dương, điệu múa mang ý nghĩa phồn thực, cầu cho sinh sôi nảy nở, mùa màng bội thu. Điệu múa này thường được thể hiện trong các nghi lễ như: Lễ cầu mùa, lễ cúng bản, lễ mừng nhà mới, ngày Tết, các dịp lễ hội và thường được thực hành trong đám cưới - đó là khi đón con dâu về thì tất cả trai gái, khách mời cùng tham gia.
Múa Tăm đao (Tẹ Tăm đao): Theo tiếng Khơ Mú, "tăm" là đánh, "tẹ" là múa, "tăm đao" là đánh đao (giống như đánh đàn, điều chỉnh nốt nhạc để tạo tiết tấu, âm thanh) còn "tẹ tăm đao" là múa đánh đao (tay đánh đao kết hợp với ngôn ngữ hình thể tạo ra điệu múa đặc trưng của người Khơ Mú).
Múa Tăm đao là điệu múa được dành cho nữ giới, đạo cụ sử dụng là Tăm đao. Nguồn gốc của múa Tăm đao bắt nguồn từ việc người phụ nữ cầm đao để đánh trong quá trình đi nương, đi rừng. Khi quay trở về, trên lưng họ gùi thóc, gùi măng hay các loại rau rừng họ gõ đao tạo ra những âm thanh vui tai để quên đi sự mệt nhọc. Buổi tối trăng lên, người con gái ngồi gõ đao để gọi chàng trai đến. Tiếng đao buồn hay vui được xuất phát từ tâm trạng của người phụ nữ. Những cây đao muốn sử dụng được lâu bền và tạo âm thanh vang và hay thì phải được cất giữ cẩn thận, trước khi dùng người ta mang ngâm vào nước để đao giãn nở cũng như giữ được độ tươi của đao.
Tăm đao thực chất vừa là một loại nhạc cụ dân gian đặc trưng của dân tộc Khơ Mú và cũng là đạo cụ khi múa. Tăm đao được làm từ thân của cây nứa nhỏ - nứa làm đao phải là nứa già vừa đủ (theo cảm nhận và kinh nghiệm của người Khơ Mú) mới tạo âm thanh vang và hay, có thể là đao to hoặc đao bé (đao mẹ và đao con), đao mẹ sử dụng tạo ra âm thanh chính. Để chế tạo loại nhạc cụ này, những người phụ nữ phải vào rừng chọn lựa những cây nứa thẳng, đẹp và không quá già. Họ chặt một đoạn cây vừa ý sao cho một đầu giữ lại phần mấu, đầu kia bỏ mấu, giữ lại thân ống nứa, phía trên đầu của mấu người ta đục 02 lỗ nhỏ nằm ở hai bên đối xứng nhau, khi đánh ngón tay cái đặt lên phần lỗ ở thân trên, ngón tay trỏ hoặc ngón giữa đặt ở vị trí lỗ phía bên dưới để điều chỉnh âm thanh, giai điệu khi múa Tăm đao. Phần phía đầu không có mấu người ta vát nhẹ hai bên thân ống tạo thành trạc hình chữ “U” dài khoảng 25 - 30 cm, giữa hai cánh trạc có xẻ một khe nhỏ vào thân ống để kẹp một sợi chỉ nhỏ, sợi chỉ này cũng có tác dụng điều tiết âm thanh. Khi đánh người ta gõ phần gốc của cánh trạc vào lòng bàn tay để hai cánh trạc rung tạo thành âm thanh.
Múa chọc lỗ tra hạt (Tẹ chư mon): Những hoạt động trong đời sống hàng ngày đã phản ánh vào nghệ thuật múa của người Khơ Mú. Nói cách khác, người Khơ Mú đã sáng tạo các điệu múa nhịp nhàng, uyển chuyển với những động tác diễn tả lại cảnh lao động sản xuất. Do đó điệu múa chọc lỗ tra hạt (Tẹ chư mon) được hình thành và đạo cụ được sử dụng khi múa lại chính là những cây gậy dùng để chọc lỗ tra hạt theo vụ mùa.
Khi điệu múa bắt đầu, đàn ông khỏe mạnh dàn hàng ngang đi trước, vừa nhún nhẩy, vừa vung gậy chọc lỗ... Âm thanh của nhạc khí phát ra từ những chiếc gậy như đánh thức đất trời, khích lệ những người tham gia lao động. Phía nữ dàn hàng ngang cùng tiến. Nam đi trước chọc lỗ, nữ nối tiếp đi sau tra hạt giống, chân gạt nhẹ như lấp đất. Cứ như vậy từng cặp nam nữ múa nhịp nhàng, uyển chuyển, hài hòa trong tiếng trống chiêng rộn ràng. Sau mỗi mùa vụ trồng lúa nương, cây gậy chọc lỗ này được đặt trang trọng trên gác bếp để gậy thêm cứng, màu thêm bóng và tránh mối mọt.
Múa sạp (tẹ khiêps): Cách múa sạp: Ban đầu múa sạp chỉ thực hành đối với số ít người cùng tham gia vì chỉ có hai cây tre hoặc hai cái chày để gõ. Sau đó con người dần sáng tạo sử dụng nhiều cây tre dành cho nhiều người ngồi gõ để phục vụ cho nhiều người cùng tham gia múa. Thông thường múa sạp ngày nay chuẩn bị đạo cụ cần thiết phải có hai cây tre to, thẳng và dài làm sạp cái và nhiều cặp sạp con bằng tre nhỏ hay nứa (đường kính khoảng 3 - 4 cm, dài 3 - 4m). Khi múa, đặt hai sạp cái cách nhau vừa đủ để gác hai đầu các cây sạp con, từng cây sạp con đặt song song với khoảng cách đều nhau chừng 30 - 40cm tạo thành dàn sạp. Người múa chia ra một tốp đập sàn và một tốp múa, mỗi tốp có đội hình là những đôi trai gái, càng nhiều cặp tham gia càng khiến đội hình thêm phong phú, sinh động. Đối với tốp đập sàn, mỗi đôi trai gái ngồi hai đầu một cặp sạp con rồi gõ, cứ ba lần gõ sạp con lên sạp cái thì một lần gõ hai sạp con vào nhau tạo ra âm thanh, tiết tấu cho múa, thỉnh thoảng người gõ và người múa đồng thanh "hú" nhằm tạo không khí thêm vui tươi, rộn ràng. Đối với tốp múa, lần lượt từng cặp trai gái nhảy vào dàn sạp, có khi người múa chỉ là nữ, họ nắm tay nhau để múa. Động tác khi lướt nhẹ nhàng, uyển chuyển, lúc dồn dập. Đội hình biến đổi ngang, dọc, chéo, tròn tất cả đều diễn ra trên dàn sạp nhưng vẫn chú ý đúng nhịp và hai chân không bị kẹp khi hai sạp con chập vào nhau. Hai tốp sạp và tốp múa thay nhau tạo không khí luôn rộn ràng trong tiếng trống, tiếng chiêng.
Múa Ong eo - múa lắc eo (tẹ cưn viết guông): Đây là điệu múa thường diễn ra vào các dịp lễ tết, hội hè, mừng cơm mới hay khi kết thúc mùa vụ. Múa Ong eo của người Khơ Mú là điệu múa dành cho nữ giới với động tác chủ yếu là lắc hông, uốn lượn eo, xoay dần xuống rồi xoay dần lên một cách uyển chuyển, nhịp nhàng, mô phỏng các động tác, cử chỉ lao động hàng ngày của người dân. Điệu múa biểu trưng cho mối cộng cảm giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên, đặc biệt là để tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ. Từng nhịp điệu đều liên quan mật thiết với tín ngưỡng cầu mùa và khát vọng về tình yêu đôi lứa. Các cô gái với váy áo thổ cẩm rực rỡ ôm sát cơ thể, nụ cười duyên dáng, nhịp gót chân nhún nhảy rộn ràng, uốn lượn lưng eo tạo nên sự cuốn hút cho người xem. Các động tác múa Ong eo là lắc hông tại chỗ, lắc hông ngồi, lắc hông bước sang ngang, lắc hông di động. Đây là điệu múa đặc trưng nhằm tôn lên vóc dáng và vẻ đẹp của phụ nữ Khơ Mú. Múa Ong eo được sử dụng khá phổ biến và kết hợp với nhiều điệu múa khác như: Tăng bẳng, tăm đao, múa vòng.
Múa Ong eo - múa lắc eo (tẹ cưn viết guông)
Múa cá lượn (tẹ gănr cạ): Thường được múa trong các dịp lễ hội, ngày vui của gia đình hoặc ngày vui của cộng đồng thôn bản. Đây là điệu múa rất đặc trưng, xuất phát từ hiện thực cuộc sống - khi người Khơ Mú đi bắt cá, ngồi ngắm nhìn những con cá bơi đi, bơi lại giữa làn nước trong veo. Về nhà, người Khơ Mú hình dung ra những động tác đuôi cá, vây cá chuyển động và sáng tác ra điệu múa, đặt tên là cá lượn. Động tác của múa cá lượn chủ yếu được thể hiện qua việc nghiêng mình và dùng tay đưa lướt mềm mại, nhẹ nhàng từ phía trước dọc theo cơ thể đưa tay ra sau rồi đổi bên với động tác tương tự. Động tác ấy khiến người xem mường tượng ra cảnh những con cá đang lướt mình trong nước, thân đang uốn lượn, nhảy múa tung tăng.
Múa đuổi chim: Là điệu múa có sự kết hợp giữa nam và nữ, đây là điệu múa thường được thực hành trong lễ cầu mùa. Cách thực hiện động tác múa như sau: Chân phải làm trụ, chân trái đưa thẳng về phía trước, tiếp đó chân phải nhảy lên 03 bước kết hợp với 02 bàn tay úp vào nhau, lấy cổ tay làm trụ, đầu ngón tay đặt ngược chiều nhau, xòe hình cánh quạt đặt ở phía trước - ngang đầu người múa. Khi chân phải nhảy lên thì tay phải hướng về phía trước. Ngược lại, khi chân trái làm trụ nhảy lên thì chân phải đưa thẳng về phìa trước, tay ở trên cũng xoay chuyển sang tay trái hướng về phía trước.
Múa đuổi chim
Ngay từ tên gọi của điệu múa đã nói lên nội dung, ý nghĩa của nó. Từ khát vọng của cộng đồng về lao động cho mùa màng bội thu nên tư duy của con người cũng nghĩ giản đơn là phải ngăn chặn chim muông và các con vật khác, không cho đến phá hoại mùa màng. Cũng từ đó, người Khơ Mú sáng tạo các động tác múa để mô phỏng về hiện thực đời sống, vì thế đã tồn tại điệu múa đuổi chim.
Múa vòng (Tẹ kưn vong do): Là điệu múa tương đối quen thuộc của rất nhiều dân tộc vùng Tây Bắc,đặc biệt tiêu biểu đối với dân tộc Thái. Tuy nhiên, người Khơ Mú cũng sử dụng múa vòng (tức xòe vòng theo tiếng Thái) là một điệu múa truyền thống của dân tộc mình. Cũng vì hiện nay Xòe vòng trở lên phổ biến với tất cả các dân tộc vùng Tây Bắc cho nên rất khó xác định xòe vòng của người Khơ Mú xuất hiện từ khi nào, bắt nguồn từ sự sáng tạo của người Khơ Mú hay tiếp thu có chọn lọc từ các dân tộc khác. Điều dễ nhận thấy điệu múa này có sức hút và tầm ảnh hưởng rất lớn đến cộng đồng vì điệu múa đơn giản, ai cũng có thể tham gia để hòa mình vào không khí đầm ấm, tươi vui và khẳng định mình trước vũ trụ và sự hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc.
Múa vòng (Tẹ kưn vong do)
Nghệ thuật trình diễn dân gian của được biểu đạt qua các điệu múa là những nét đẹp văn hoá truyền thống người Khơ Mú. Với những điệu múa kể trên cho thấy người Khơ Mú có đời sống tinh thần phong phú và không ngừng sáng tạo ra các giá trị nghệ thuật. Do vậy hàng năm vào mỗi dịp lễ hội, ngày hội, các buổi sinh hoạt văn hóa cộng đồng...người Khơ Mú lại cùng nhau uốn mình theo những vũ điệu mang đậm bản sắc dân tộc.