Điện Biên là tỉnh miền núi phía Bắc có dân tộc Thái chiếm đa số, cư trú hầu hết trên các huyện, thị xã, thành phố và được chia thành hai ngành: ngành Thái đen (Táy đăm) và ngành Thái trắng (Táy khao hay Táy đón).
Dân tộc Thái là một trong những dân tộc còn giữ được nhiều nét văn hóa truyền thống mang tính đa dạng, phong phú và đậm bản sắc dân tộc, trong đó nghề dệt truyền thống của dân tộc Thái, ngành Thái đen vô cùng độc đáo và tinh tế. Các sản phẩm được tạo ra từ nghề dệt như: vỏ đệm, vỏ gối, vỏ chăn, túi đeo, khăn... đều thể hiện sự khéo léo, tỷ mỉ của người phụ nữ dân tộc Thái. Những phương pháp, kỹ thuật dệt vải truyền thống bao gồm việc làm ra các sản phẩm cụ thể phục vụ sinh hoạt, các hoa văn trang trí đặc sắc, kỹ thuật dệt may các sản phẩm từ vải dệt có tính thẩm mỹ, chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Tính độc đáo và tinh tế còn thể hiện trong các công đoạn trong nghề dệt gồm: trồng bông, xe sợi, dệt vải và nhuộm nhuộm vải, nhuộm sợi…Đây là các công đoạn rất quan trọng để tạo ra được một sản phẩm đẹp mắt, chất lượng tốt, thuận lợi khi sử dụng, có giá trị cao.
Trong nghề dệt truyền thống dân tộc Thái, ngành Thái đen việc nuôi tằm để lấy sợi tơ tằm cũng là một công đoạn quan trọng để lấy sợi dệt vải, vừa để làm chỉ thêu…Tằm có hai loại chính gồm tằm ăn lá dâu và tằm ăn lá sắn; Cho nên, ngoài việc trồng cây sắn để lấy lá cho tằm ăn thì cây sắn cũng cho thu hoạch củ góp phần tăng gia kinh tế cho người nuôi tằm; loại tằm còn lại ăn lá dâu nên việc trồng cây dâu cũng rất quan trọng, sợi tơ tằm thường mảnh và óng vừa dùng để dệt, vừa dùng làm chỉ thêu.
Công việc nuôi tằm thường kéo dài khoảng một tháng, tằm bắt đầu làm kén, thời gian tằm vào kén kéo dài khoảng ba ngày đêm, khi đã thành kén tằm người nuôi tằm có thể lấy kén để sao lấy sợi và thường tiến hành xe sợi qua một số công đoạn như: Cho kén tằm vào mẹt rồi lấy cát phủ lên (do kén tằm nhẹ nên phải phủ cát lên, khi sao sợi kén tằm không bị kéo theo), chuẩn bị nồi để đun nước sao sợi và tiến hành sao sợi.
Khi đã sao thành quận sợi thì đem giặt và phơi khô có thể cất đi một thời gian dài rồi đem sử dụng cũng được, việc phơi khô sợi có tác dụng là để tránh mọt. Khi có nhu cầu lấy sợi để sử dụng thì người ta sẽ đem quận sợi nhúng vào nước cho sợi ẩm rồi đem nhuộm màu theo ý muốn.
Ngoài sử dụng tơ tằm để dệt vải, việc trồng cây bông cũng rất quan trọng, bông cũng là nguồn nguyên liệu không thể thiếu để làm sợi dệt vải. Bông thường được trồng vào tháng 03, 04 âm lịch và thu hoạch vào khoảng tháng 08 âm lịch, sau khi thu hoạch xong họ tiến hành lựa chọn những hạt bông tốt và loại bỏ những hạt bông không đạt tiêu chuẩn, để nhuộm vải cần trải qua các quy trình sau:
Nhuộm sợi hoặc vải thành màu đen: Dân tộc Thái thường trồng cây chàm để nhuộm vải hoặc sợi thành màu đen có tác dụng giữ màu cho vải được bền lâu và không bị phai màu (trước đây không sử dụng phẩm nhuộm để nhuộm màu). Cây chàm được trồng vào tháng 03, 04 âm lịch và thu hoạch vào khoảng tháng 07, 08 âm lịch. Ngày nay việc nhuộm vải, sợi thành màu đen bằng chất liệu cây chàm đã không còn phổ biến nữa thay vào đó là các loại phẩm màu có bán trên thị trường.
Cách tạo màu từ cây chàm: Chuẩn bị chum dùng để ngâm lá chàm, lá chàm được ngâm khoảng hai đêm, kiểm tra thấy nước lá chàm đã đạt tiêu chuẩn, thì tiến hành vớt bã lá chàm để lấy nước; tiếp đến rắc một bát vôi bột vào quấy đều (nặm hỏm) rồi để qua đêm.
Lá cây rừng (baư nát) đem thái nhỏ cho vào rổ, giá, sọt…rắc tro bếp phủ lên trên lớp lá; tiếp đến tưới nước lên trên trên để lọc lấy nước (nặm lắng) có tác dụng giúp cho sợi hoặc vải không bị phai màu. Hòa hai loại nước lại với nhau ta được một hỗn hợp dung dịch để nhuộm màu đen.
Nhuộm mầu đỏ: Lấy cánh kiến phơi khô, đun với nước cho tan có tác dụng tạo màu đỏ, kết hợp với nước (nặm lắng) có tác dụng làm cho màu không bị phai, dung dịch được đun sôi để nguội với nặm lắng tạo thành dung dịch màu đỏ là có thể nhuộm vải, sợi...
Nhuộm màu vàng: Lấy quả “Má xum pú” (Trước đây người dân thường nhặt loại quả này trong rừng nhưng ngày nay do rừng đã bị thu hẹp nên loại cây “Má xum pú” cũng không còn nhiều) tách lấy hạt đem đun lên để lấy nước rồi để nguội tạo thành dung dịch màu vàng có thể nhuộm vải, sợi kết hợp với nước (nặm lắng) có tác dụng làm cho màu không bị phai.
Nghề dệt truyền thống dân tộc Thái, ngành Thái đen đã có từ rất lâu đời và gắn liền với người phụ nữ dân tộc Thái, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác; thông qua nghề dệt thể hiện sự đảm đang của người phụ nữ Thái, các sản phẩm thủ công làm từ nghề dệt chủ yếu là để đáp ứng nhu cầu sử dụng trong gia đình là chủ yếu, ngày nay các sản phẩm làm từ nghề dệt đã trở thành hàng hóa để trao đổi buôn bán ngoài thị trường; việc truyền dạy nghề dệt chủ yếu là thực hành, các thiếu nữ dân tộc Thái đến tuổi hiểu biết đã được các bà, mẹ hướng dẫn cách dệt vải, thêu các hoa văn truyền thống…Trong nghề dệt, để có được một tấm vải dệt truyền thống cần tiến hành các bước như:
Bước một tách hạt bông (ỉu phải): Khi đã có hạt bông thì cần có dụng cụ tách hạt (ỉu phải) để lấy bông, người ta tách bông ra khỏi vỏ hạt bông, thường công đoạn này cũng mất nhiều thời gian; dụng cụ để tách hạt bông được chế tác thủ công, phần chân được lắp giáp hình chữ T, ở hai đầu chữ T được ghép hai thanh gỗ nhỏ dài khoảng 50cm, bản rộng khoảng 6cm, dày khoảng 3cm tạo thành chạc giống càng xe đạp; cách đầu trên của càng khung dụng cụ tách hạt bông khoảng 10cm có luồn hai thanh gỗ dài khoảng 25cm được làm tròn, giữa hai thanh gỗ tròn được luồn một thanh gỗ tròn khác dài khoảng 30cm liền với tay quay có tác dụng khi cho hạt bông vào, người ta quay để kéo hạt bông cho bông tách ra khỏi vỏ.
Bước hai bật bông (tháp phải): Bông đã được tách ra khỏi vỏ thì tiến hành bật bông cho tơi xốp, dụng cụ dùng để bật bông được chế tác đơn giản gồm cung bật bông (công tháp phải) và Thúng đựng bông (xốn). Trong đó, cung bật bông là một cần tre nhỏ dài khoảng 01m làm gần giống như chiếc cung, dây cung bật bông trước đây thường được làm bằng sợi cây gai bện nhỏ; ngày nay thường sử dụng sợi dây dù để thay thế cho sợi dây gai bền truyền thống, khi sử dụng họ dùng một đoạn tre nứa nhỏ để bật dây cung cho đều; Thúng đựng bông có tác dụng để đựng bông khi bật bông và không để bông bay bụi.
Bước ba vê bông (lọ phải): Bông đã được làm tơi xốp, họ tiến hành vê bông thành các gòn bông, khi bông đã được vê hết thì chuyển sang bước tiếp theo.
Bước bốn xe sợi (pắn phải): Đây là công đoạn tách từ gòn bông để tạo thành sợi, họ sử dụng dụng cụ xe sợi để quay lấy sợi cho khỏi rối tạo thành quận chỉ sợi (náy phải)
Bước năm quay sợi (pia phải): Khi đã có đủ các quận chỉ sợi thì quay sợi (pia phải) để tạo quận sợi có vòng to rồi đem quận sợi đi giặt (tốp nặm) và đun hồ để ngâm sợi và đem phơi khô; tiếp đến sử dụng hai cây tre dài để luồn vào trong các quận sợi, một cây để treo lên giống như sào phơi, cây treo thả xuống để cho quận sợi được căng ra…
Bước sáu lắp quận sợi (công quặng) và quay quận chỉ (phiến lót): Sau khi thu sợi rồi tiến hành cho từng quận vào “công quăng” có tác dụng cho sợi không bị rối, họ sẽ tách lấy một đầu dây sợi nối vào lõi chỉ và sử dụng công cụ quay cuốn thành quân chỉ sợi (phiến lót); thường phải có khoảng 30-40 quận chỉ sợi thì mới đủ để làm một sấp vải (cọn phải).
Bước bảy dải sợi (khên phải): Sử dụng "chuông khên" là dụng cụ để cho các quận chỉ sợi vào, thường là 08 hoặc 10 quận chỉ sợi rồi cầm "chuông khên" kéo sợi dải quanh các cột nhà sàn và được chia khoảng 08-10 vòng dải sợi thì đủ để dệt một sấp vải (cọn phải).
Bước tám mắc sợi vào khung cửi (ký) dệt vải: Công đoạn dải sợi (khên phải) được dải quấn sung quanh các cột nhà sàn, khi đã đủ để dệt một sấp vải thì họ thu cho vào túi to hoặc bao để đựng rồi đem treo vào cạnh khung cửi rồi tiến hành luồn sợi vào khung cửi để dệt, sợi được luồn qua lược dệt (phứm), luồn qua “khau hú”…khi đã đan sợi xong mới tiến hành dệt vải để tạo ra các sấp vải dệt truyền thống.
Nghề dệt truyền thống dân tộc Thái, ngành Thái đen cho ta thấy được những giá trị thiết thực của nghề dệt trong xã hội nói chung, đối với cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày của đồng bào Thái nói riêng thể hiện nét văn hóa đặc trưng cần được lưu giữ, bảo tồn phát huy những giá trị trong giai đoạn hiện nay.