Chiều 07/5/1954, De Castries, tướng chỉ huy quân đội pháp tại Điện Biên Phủ bị bắt ngay tại căn hầm trú ẩn của mình sau 5 tháng đóng đô tại đây. Lần đầu tiên trong lịch sử, ta bắt sống "cơ quan đầu não" và toàn bộ lính chiến đấu của quân đối phương, kết thúc cuộc chiến "không cân sức" đã kéo dài nhiều năm. Với những người trong cuộc, giây phút một tướng chỉ huy "lỗi lạc" với nhiều thành tích không chịu khuất phục trước đó, nay lại không chút phản kháng, lầm lũi giơ tay xin hàng mãi là hình ảnh bất hủ trong lịch sử chiến tranh Việt Nam.
Ngay khi Pháp nhảy dù lên Điện Biên Phủ và xây dựng một kế hoạch chiếm đóng hòng nhử Việt Minh lên để giao chiến, ta nhận định nếu có sự chuẩn bị tốt, đây sẽ là cơ hội ta đánh đòn cuối cùng với Pháp, chấm dứt cuộc chiến tranh đô hộ của Pháp tại Việt Nam. Quá trình chuẩn bị của hai bên, về cơ bản cả ta và Pháp đều nắm được những "động tĩnh" của quân đối phương. Nếu như Pháp thường xuyên cho máy bay tiêm kích, máy bay chiến đấu và pháo oanh tạc vào những con đường vận chuyển của ta, hay nổ súng vào những địa phận nghi là vị trí đóng quân của Việt Minh thì ngược lại, ta cũng có những đợt tiến công nhỏ vào những cứ điểm vòng ngoài của Pháp, tiêu diệt khá nhiều sinh lực địch. Với quyết tâm "chắc thắng", ta nhiều lần rời ngày nổ súng và nghiên cứu, tính toán để giành bằng được thắng lợi ngay từ trận mở đầu, sau 3 tháng chuẩn bị, đến ngày 13/3/1954, cuộc chiến mới chính thức bắt đầu với việc ta nổ súng tại Trung tâm đề kháng Him Lam.
Nhanh chóng tiêu diệt vị trí này ngay những giờ đầu, các vị trí còn lại ở phía Bắc và Đông Bắc cũng hoàn toàn nằm trong vòng kiểm soát của ta chỉ 3 ngày sau đó. Đợt tấn công thứ hai, rồi thứ ba của Việt Minh vào Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã trở thành chiến sự ác liệt nhất trong lịch sử chiến tranh thế giới. Thực dân Pháp đã tìm mọi cách để đương đầu với quân ta với sự viện trợ liên tiếp bằng đường hàng không. Đến giữa tháng 4/1954, hầu như các cỡ pháo của ta đã làm chủ được bầu trời, khiến cho việc viện trợ bằng con đường này của Thực dân Pháp trở nên khó khăn gấp bội phần khi phải bay cao thả dù từ độ cao 2000 đến 3000m.
Từ 01/5 cục diện chiến trường giữa hai bên trầm xuống. Trong khi Việt Minh vẫn đang tìm cách đào đường hầm đến lô cốt cố thủ của Pháp trên đồi A1 để đặt bộc phá mới có cơ hội chiếm được A1 thì về phía Pháp đã mất tinh thần hoàn toàn. Những nỗ lực nhằm cứu vãn tình thế sắp "bại trận" vô cùng khó khi mà hấu hết các cứ điểm của chúng đã nằm dưới tầm kiểm soát của Việt Minh. Ngay cả A1, chiếc chìa khóa bảo vệ cuối cùng cũng đang bị "đục khoét", có thể mất bất cứ lúc nào nhưng cũng không thể ngăn chặn được và những cứ điểm xung quanh Hầm chỉ huy của De Castries cũng bị triệt tiêu từng ngày. Một tiểu đoàn dù được thả xuống hòng giúp sức cho Tập đoàn cứ điểm có thể cầm cự thêm được vài ngày, với hi vọng khi Hội nghị Genève đang diễn ra tại Thụy Sĩ bàn về vấn đề Đông Dương, sẽ có đề nghị ngừng bắn, và Pháp, sẽ có những nước cờ nhất định mà rút lui trong trận chiến này một cách êm đẹp.
Nếu như trước khi chính thức diễn ra trận đánh, De Castries hết mình phụng sự, cố công gây dựng Tập đoàn cứ điểm mạnh nhất có thể và hoàn toàn tự tin, hống hách về khả năng phòng thủ cũng như tài thao lược sắp xếp của mình thì đến khi diễn ra trận đánh, vai trò của De Castries khá mờ nhạt. Những tài liệu sau này có ghi lại, từ sau đợt tấn công đầu tiên, De Castries thường xuyên ở trong hầm và ít ra ngoài hơn. Chỉ huy chiến đấu chủ yếu chỉ từ các phó của ông ta và việc làm thường xuyên nhất của De Castries là ngồi tại chỗ nghe ngóng, đưa ra những mệnh lệnh rời rạc không hiệu quả và liên tục điện về Hà Nội xin tăng viện hoặc bàn cách tìm đường rút lui. Ngày 29/4 De Castries điện cho Cogny báo tin bùn trong những chiến hào ở Điện Biên Phủ đã sâu tới 1m và rằng mỗi ngày chỉ nhận được 30 tấn hàng tiếp tế và không có một tên lính tiếp viện nào.
Ngày 04/5, Cogny điện cho De Castries một số chỉ thị về cuộc rút chạy theo quyết định của tổng chỉ huy và trao cho De Castries được toàn quyền trong chuyện lựa chọn phương án và thời gian thực hiện, không quên yêu cầu De Castries phải phá hủy hếu hết những gì có thể, giữ bí mật về kế hoạch và hành động một cách thận trọng. Chỉ chờ có vậy, De Castries liền triệu tập cuộc họp ngay trong ngày, với đầy đủ những thành phần quan trọng của Tập đoàn cứ điểm, phổ biến và bàn bạc kế hoạch rút lui tối ưu nhất. Bằng cách chia ra làm ba nhóm riêng rẽ theo các ngả Tây Bắc, Nam và Đông Nam, thương binh cùng một vài đơn vị bảo vệ phải ở ngay tại chỗ dưới quyền điều động trực tiếp của ông ta đồng thời đã ra lệnh phá hủy vũ khí phương tiện, chỉ để lại 3 ngày lương thực chờ thời cơ rút chạy sang Lào. Dự kiến kế hoạch rút chạy sẽ được thực hiện vào 20 giờ ngày 07/5. Dù vậy không mấy ai có ảo tưởng vào lối thoát này, chiến hào của Việt Minh đã bao vây rất chặt, không còn kẽ hở. Ngay cả Cogny cũng cho rằng tháo chạy khỏi Điện Biên Phủ chỉ dẫn tới sự hi sinh vô ích. Theo Giuyn Roa "Ở Điện Biên Phủ, người ta gọi cuộc hành binh này là "mở con đường máu" để chứng tỏ không có ảo tưởng về nó: mười người sẽ chỉ còn lại một người".
Tuy nhiên, Việt Minh đã hành động một cách mạnh mẽ bằng cách đẩy nhanh cuộc tiến công của mình vào những vị trí then chốt cuối cùng của tập đoàn cứ điểm, tiến hành cuộc tổng công kích bất ngờ. Sáng sớm 07/5, sau khi chiếm được cứ điểm A1, chiếc chìa khóa then chốt của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã mất, hầm chỉ huy của De Castries nằm trong tầm hỏa lực của Việt Minh. Các cuộc điện thoại, điện đàm, thương lượng với các kế hoạch cứu nguy, giải thoát, trốn chạy được diễn ra liên tiếp nhằm tìm lối thoát tối ưu nhất. Trong cái ngày định mệnh 7/5, rõ ràng De Castries cũng đã có phần tiên liệu từ trước đó, chỉ rằng nó đến quá nhanh. Trước khi bị bắt, De Castries đã có cuộc nói chuyện cuối cùng bằng điện thoại với chỉ huy của mình ở Hà Nội, khẳng định “Chúng tôi sẽ không hàng". Cogny đã nói những lời cuối cùng với cấp dưới của mình: "Tướng quân! Tất cả những gì ông đã làm được đều rất tốt, không được hàng, không được để bị bắt sống, ông phải tự sát. . . Cả nước Pháp sẽ ghi nhớ công lao của ông. . .". Ở đầu dây bên này De Castries dập gót giày đứng nghiêm hứa với Cogny bằng một giọng cảm động rằng ông ta sẽ tử thủ đến cùng. Tuy nhiên ngay sau đó trong cuộc nói chuyện với vợ mình, bằng một giọng xúc động, De Castries đã hứa là sẽ trở về về bình an. Bằng thái độ của một quân binh thực thụ, De Castries đã hứa sẽ tử thủ đến cùng; bằng bản năng con người ham sống sợ chết, De Castries cùng Bộ chỉ huy của mình đã đầu hàng trước hai hàng gọng súng của Việt Minh khi họ đầy khí thế tiến thẳng vào đây. Và cái kế hoạch "mở đường máu" trốn sang Thượng Lào đã được bàn tính trước đó đã mãi mãi không bao giờ thực hiện được.
15 giờ ngày 07/5, Bộ chỉ huy chiến dịch phát lệnh tổng công kích trên toàn mặt trận. Lực lượng của ta chia làm các mũi tấn công, nhằm thẳng hướng hầm chỉ huy Tập đoàn cứ điểm thẳng tiến. Đại đoàn 312 đánh phía Đông vượt cầu Mường Thanh; Đại đoàn 308 đánh phía Tây mở đường qua sân bay; một mũi tấn công từ hướng Tây Nam do Đại đoàn 316 đảm nhiệm. Các mũi tấn công như những gọng kìm siết chặt vòng vây, vượt qua những làn đạn yếu ớt của quân thù tiến thẳng vào Sở chỉ huy GONO, tổ xung kích của đồng chí Tạ Quốc Luật (Đại đội trưởng Đại đội 360, Trung đoàn 209, Đại đoàn 312) gồm 2 chiến sỹ Hoàng Đăng Vinh, Bùi Văn Nhỏ xông vào hang ổ cuối cùng của địch. Tạ Quốc Luật hạ lệnh cho địch bằng tiếng Pháp: "Giơ tay lên, hạ vũ khí xuống các ông đã bị bắt. . ." Toàn bộ sỹ quan Pháp giơ tay xin hàng, riêng De Castries cố xé những tài liệu cuối cùng.
Trước đó ta có khá ít thông tin về De Castries. Những người lính đã bắt sống De Castries cũng chưa được nhìn thấy ảnh ông ta trước đó. Đó là một con người có dòng giõi quý tộc và thừa hưởng nghiệp nhà binh từ cha ông mình. Với nhiều thành tích trong các trận chiến tại Tây Âu và tính cách ngang tàn, dám nghĩ, dám làm, có thể hiểu vì sao Navarre lại chọn một Đại úy thay vì một thiếu tướng với tầm quan trọng của Điện Biên Phủ. Khi các chiến sĩ Việt Nam tiến vào căn hầm của De Castries, các gian hầm sáng choang ánh điện, hầm lương thực chất đầy bánh mì, socola, đồ hộp, v.v… Trong hầm, giấy tờ vẫn ngổn ngang, nhiều máy điện đài và các giấy tờ lưu trữ chưa kịp tiêu huỷ. Trên bàn De Castries la liệt những chai rượu uống dở, ngổn ngang cốc chén, có cả một bức thư của vợ De Castries, phía cuối hầm là đống giấy đang cháy. . . De Castries ăn mặc chỉnh tề đầu đội mũ calô đỏ với quân phục mùa hè ngắn tay màu vàng nhạt, trên ngực đeo một cặp huân chương. Vị chỉ huy có dáng dấp giống Hoàng đê La mã giờ đây không còn giữ được vẻ ngang tàng, hống hách trước kia nữa mà đã cùng 20 sỹ quan tuỳ tùng của mình theo lệnh của Việt Minh đi về phía trại tạm giam.
Sau 56 ngày đêm chiến đấu không khoan nhượng, tập đoàn cứ điểm đã tan vỡ hoàn toàn. Trên các cứ điểm mọc lên trắng xóa cờ đầu hàng. Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn đã điện về Mường Phăng báo cáo đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đại tướng ra lệnh mang ảnh De Castries ra đối chiếu, kiểm tra quân hàm chữ ký đề phòng địch đánh tráo chỉ huy. Sau khi đã xác định chính xác, tin bắt sống tướng De Castries đã lan đi khắp chiến trường trong tiếng reo hò vang dậy của những đại đoàn quân chiến thắng. Đúng 17h30 phút lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” do Đại đội trưởng Tạ quốc Luật phất cao trên nóc hầm De Castries tung bay giữa chiều hè tháng năm lịch sử, chiến dịch Điện Biên Phủ chính thức chấm dứt, kết thúc cuộc kháng chiến trường kì chống Thực dân Pháp của quân và dân ta.
Isabelle ở phía Nam, vẫn manh nha kế hoạch trốn chạy. Số tàn quân Pháp tại đây vẫn thực hiện cuộc hành quân như dự định trong một sự hoảng loạn tột độ. Tuy nhiên sau khi bắt được Đờ Cát, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhắc lại mệnh lệnh siết chặt vòng vây, cách thức gọi hàng kết hợp với dùng hoả lực pháo uy hiếp, đề phòng địch mở đường máu tháo chạy sang Thượng Lào. 308 được lệnh đưa một đơn vị nhanh chóng tăng cường cho Hồng Cúm, phối hợp cùng 304 truy kích tiêu diệt quân địch, không để một tên nào chạy thoát. 24 giờ gần như toàn bộ quân địch ở Hồng Cúm bị bắt, trong đó có cả Lalăng, chỉ huy phó của tập đoàn cứ điểm, đặc trách phân khu Hồng Cúm; chỉ vài chục tên đơn lẻ là chạy được sáng các căn cứ của Pháp ở bên Lào.