Đồng chí Tôn Đức Thắng là một trong những người chiến sĩ tiên phong của Cách mạng Việt Nam. Với 92 năm tuổi đời, gần 70 năm hoạt động cách mạng liên tục, được Đảng và Nhà nước phân công giữ nhiều trọng trách, đồng chí đã có những cống hiến to lớn cho sự nghiệp Cách mạng Việt Nam, vì độc lập, tự do cho Tổ quốc, vì hạnh phúc của Nhân dân, vì sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Đồng chí Tôn Đức Thắng sinh ngày 20/8/1888 trong một gia đình nông dân khá giả ở Cù lao Ông Hổ, xã Mỹ Hòa Hưng, tổng Định Thành, tỉnh Long Xuyên, nay là thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Thuở nhỏ được học hành đầy đủ và sớm có lòng yêu nước.
Bắt đầu cuộc đời làm thợ, đồng chí lao ngay vào phong trào yêu nước của thợ thuyền và trở thành hạt nhân lãnh đạo các cuộc đấu tranh bãi khóa của học sinh trường Bách Nghệ, là người tổ chức các cuộc bãi công của công nhân Ba Son (1912). Năm 1915, với trình độ tay nghề giỏi, Tôn Đức Thắng quyết định vào học trường thợ máy Châu Á ở Sài Gòn. Năm 1916, bị động viên trở thành lính thợ làm việc trên chiến hạm France. Ngày 20-4-1919, Tôn Đức Thắng tham gia kéo cờ đỏ phản chiến của hải quân Pháp ở Biển Đen ủng hộ nước Nga Xôviết. Bị trục xuất khỏi nước Pháp, Tôn Đức Thắng trở về Sài Gòn tích cực tham gia hoạt động nghiệp đoàn, xây dựng những cơ sở công hội bí mật tại Sài Gòn - Chợ Lớn và trở thành người lãnh đạo công hội bí mật đầu tiên ở Việt Nam. Năm 1927, Tôn Đức Thắng được kết nạp vào Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, được cử làm Ủy viên Ban Chấp hành Kỳ Bộ Nam Kỳ, Bí thư Thành ủy Sài Gòn, tham gia vào quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 7 năm 1929, Tôn Đức Thắng bị thực dân Pháp bắt giam ở khám lớn Sài Gòn, sau đó, bị kết án 20 năm khổ sai, và đến đêm ngày 2 rạng ngày 3-7- 1930, bị đày ra Côn Đảo. Bị đọa đày trong “địa ngục trần gian” Côn Đảo, đồng chí vẫn giữ vững khí tiết của người cộng sản, kiên trung bất khuất, son sắt giữ trọn niềm tin vào cách mạng. Tại đây, đồng chí đã tham gia thành lập Chi bộ Đảng ở Côn Đảo và là một trong những chi ủy viên đầu tiên. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, từ Côn Đảo trở về, đồng chí bắt tay ngay vào cuộc chiến đấu mới của đồng bào Nam bộ và nhân dân cả nước chống thực dân Pháp trở lại xâm lược. Ngày 15-10-1945, đồng chí được bầu vào Xứ ủy Nam kỳ, phụ trách Ủy ban kháng chiến chỉ huy các lực lượng vũ trang Nam bộ. Tháng 12-1945, Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam và các khu 7, 8, 9 ở Nam Bộ được thành lập, đồng chí được giao nhiệm vụ tổ chức hậu cần. Ngày 06-01-1946, đồng chí được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I. Tháng 2- 1946, đồng chí được điều động ra Hà Nội. Ngày 02-5-1946, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt) được thành lập, đồng chí được bầu làm Phó Hội trưởng. Tháng 11-1946, đồng chí được bầu là Phó Trưởng ban Thường trực Quốc hội.
Năm 1948, đồng chí giữ chức Quyền Trưởng ban Thường trực Quốc hội. Hội nghị Trung ương Đảng mở rộng vào tháng 01-1948 bầu bổ sung đồng chí vào Ban Chấp hành Trung ương. Năm 1950, Hội Việt - Xô hữu nghị được thành lập, đồng chí được bầu làm Chủ tịch Hội. Tháng 02-1951, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, đồng chí được bầu vào Ban chấp hành Trung ương. Tháng 9-1955, đồng chí được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Trưởng ban Thường trực Quốc hội. Ngày 15-7-1960, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa II, đồng chí được bầu làm Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hơn hai mươi năm là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và người lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo Mặt trận Dân tộc thống nhất, đồng chí Tôn Đức Thắng đã góp phần cống hiến xứng đáng của mình vào cuộc đấu tranh vĩ đại của dân tộc vì độc lập, tự do của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân. Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, đồng chí Tôn Đức Thắng được bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại kỳ họp đặc biệt của Quốc hội khóa III, tháng 9-1969. Do những cống hiến to lớn của mình đối với Tổ quốc và nhân dân, năm 1958 đồng chí được Quốc hội và Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng thưởng Huân chương Sao vàng. Do cống hiến của đồng chí trên cương vị Chủ tịch Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam đối với phong trào hòa bình thế giới, năm 1955 đồng chí được Ủy ban Giải thưởng hòa bình quốc tế Sta-lin của Liên Xô (giải thưởng này sau đó mang tên Lênin) tặng Giải thưởng Sta-lin “Về sự nghiệp củng cố hoà bình và hữu nghị giữa các dân tộc”. Năm 1967, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 50 Cách mạng Tháng Mười, đồng chí được Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô tặng thưởng Huân chương Lênin. Hiến dâng cả đời mình cho độc lập, tự do của dân tộc và cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, Chủ tịch Tôn Đức Thắng là hình ảnh trong sáng của tinh thần bất khuất và đạo đức chí công vô tư, tác phong khiêm tốn, giản dị.
Cuộc đời hoạt động của Đồng chí Tôn Đức Thắng gắn liền lòng yêu nước, thương dân và tinh thần đấu tranh cách mạng, suốt đời hy sinh phấn đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân. Lý tưởng phấn đấu cho sự nghiệp độc lập dân tộc, giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động được Chủ tịch Tôn Đức Thắng theo đuổi, thực hiện trọn vẹn trong suốt cả cuộc đời. Ở những cương vị lãnh đạo quan trọng của Đảng và Nhà nước, mặc dù tuổi cao, Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã phấn đấu không mệt mỏi góp phần cùng với Bác Hồ, Trung ương Đảng, Quốc hội và Mặt trận đưa hai cuộc kháng chiến của dân tộc ta đến thắng lợi vẻ vang. Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã nêu gương cho chúng ta, trước hết là những người cộng sản, tính tổ chức, tính nguyên tắc; dù việc lớn việc nhỏ, nhất thiết tuân thủ quyết định của tổ chức, của tập thể.
Đồng chí Tôn Đức Thắng luôn phấn đấu vì sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân, luôn yêu thương kính trọng nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ; cống hiến trọn đời cho tình đoàn kết chiến đấu của giai cấp công nhân quốc tế, vì sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc. Tôn Đức Thắng nắm vững và vận dụng quán triệt tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, không ngừng mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, đồng thời làm phong phú thêm tư tưởng đó bằng cống hiến của riêng mình.
Đồng chí Tôn Đức Thắng luôn còn là một tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng: Nhân ái, thủy chung, khoan dung, nhân hậu; suốt đời cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, khiêm tốn, giản dị và tình cảm quốc tế trong sáng, cao cả. Ở nhiều cương vị khác nhau của Đảng, Nhà nước, Bác Tôn đã có những đóng góp lớn lao trong việc xây dựng khối đoàn kết quốc tế, giữ gìn và củng cố hòa bình thế giới; là một trong những công nhân Việt Nam đầu tiên hoạt động trong phong trào công nhân Pháp và xây dựng mối tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt - Pháp. Bác là người Việt Nam đầu tiên được giải thưởng Hòa bình quốc tế Lênin, xứng đáng là một chiến sĩ xuất sắc của phong trào hòa bình thế giới. Bác Tôn qua đời ngày 30 tháng 3 năm 1980 tại Hà Nội.
Xin giới thiệu câu chuyện nhỏ về Chủ tịch Tôn Đức Thắng qua hồi ức của Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp:
Hồi ký của bác sĩ Trần Hữu Nghiệp kể lại chuyện khi Bác Tôn sang Liên Xô nhận giải thưởng Hòa bình quốc tế Lênin. Đây là một giải thưởng do Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Liên Xô hàng năm tặng cho những người có công đóng góp cho phong trào hòa bình thế giới. Giải thưởng gồm một tấm bằng kèm theo số tiền 100.000 rúp.
Khi nhận được tin này, Bác Tôn rất do dự vì e mình chưa xứng đáng nhận phần thưởng cao quí đó. Bác Hồ đã đích thân đến gặp, cầm tay Bác Tôn nói đại ý: Người nhận phần thưởng này phải là người tiêu biểu. Người tiêu biểu đó chính là Cụ. Ngày 21-1-1956, tại Điện Krem-li, Ủy ban giải thưởng hòa bình quốc tế Lênin đã tổ chức trọng thể lễ trao phần thưởng cho Bác Tôn. Số tiền được thưởng, Bác Tôn đã trao lại cho Ủy ban Thiếu niên, Nhi đồng Hà Nội để sử dụng phục vụ các cháu thiếu niên, nhi đồng.
Trong thời gian lưu lại Mátxcơva, Bạn có trao riêng cho Bác Tôn 10.000 rúp, các thành viên khác mỗi người 1.000 rúp để mua quà tặng về cho gia đình, bạn bè. Ai cũng mua hết số tiền giành cho phần mình. Riêng Bác Tôn, đến ngày cuối sắp lên đường về nước vẫn chưa mua gì cả. Bác sĩ Nghiệp nhắc xem Bác muốn mua gì thì mua giúp. Bác Tôn suy nghĩ hồi lâu, bảo:
- Tôi thích nhứt là cá kho tộ bỏ nhiều tiêu. Chiều nào bà ấy cũng đem tiêu hột ra đâm trong chén, văng tùm lum ra ngoài. Mắt bả kém rồi, nên cứ mò mò lượm từng hột bỏ vô. Vậy anh mua dùm tôi một cái cối xay tiêu đem về tặng chắc bả mừng lắm!
Bác sĩ Nghiệp vội chạy ra G.U.M (Cửa hàng bách hóa tổng hợp Mátxcơva) tìm một cái cối xay tiêu quay tay bằng gỗ rất đẹp. Nhưng chỉ hết có 7 rúp. Số tiền còn lại 9.993 rúp, Bác Tôn đã giao trả lại tất cả cho Bạn. Thật là tình yêu đối với vợ, tình cảm đối với quê hương và ý thức tiết kiệm của Bác Tôn quả là cao đẹp vậy.
Theo hồi ký “Những ngày tôi làm thầy thuốc riêng cho Bác Tôn” của bác sĩ Trần Hữu Nghiệp.
Biên tập: Hồng Nhung