Di tích nhà tù Lai
Châu nằm ở phường Sông Đà - thị xã Mường Lay - tỉnh Điện Biên. Nhà tù khởi công
xây dựng vào năm 1901 và được thực dân Pháp sử dụng đến năm 1953. Khi bộ đội
Việt Nam tiến vào giải phóng thị xã Lai Châu, nhà tù Lai Châu được dùng làm một
số công sở của tỉnh. Di tích nhà tù Lai Châu là loại hình di tích lịch sử, là
nơi ghi dấu tội ác của thực dân Pháp xâm lược cùng bè lũ tay sai bán nước đối
với nhân dân Việt Nam
nói chung và nhân dân các dân tộc tỉnh Lai Châu nói riêng.
Di tích nhà tù Lai
Châu nằm ở phường Sông Đà - thị xã Mường Lay - tỉnh Điện Biên. Nhà tù khởi công
xây dựng vào năm 1901 và được thực dân Pháp sử dụng đến năm 1953. Khi bộ đội
Việt Nam tiến vào giải phóng thị xã Lai Châu, nhà tù Lai Châu được dùng làm một
số công sở của tỉnh. Di tích nhà tù Lai Châu là loại hình di tích lịch sử, là
nơi ghi dấu tội ác của thực dân Pháp xâm lược cùng bè lũ tay sai bán nước đối
với nhân dân Việt Nam
nói chung và nhân dân các dân tộc tỉnh Lai Châu nói riêng.
Đầu thế kỷ 20, cuộc
đấu tranh của nhân dân các dân tộc Lai Châu (nay tách thành hai tỉnh Lai Châu
và Điện Biên, sau đây gọi chung là Lai Châu) đã liên tiếp nổ ra với đỉnh cao là
phong trào của Vàng Tả Chay (1918 - 1920). Hoảng sợ trước phong trào đấu tranh
của các tầng lớp nhân dân đang ngày càng phát triển và có sự đoàn kết rộng rãi,
thực dân Pháp đã phải mở rộng việc xây dựng các căn cứ đồn bốt, nhà tù hòng làm
công cụ để bắt bớ, giam giữ, tra tấn làm suy giảm ý chí yêu nước của nhân dân
các dân tộc Lai Châu, chia rẽ dân tộc, dập tắt các phong trào khởi nghĩa của
nhân dân chống lại chúng.
Di tích nhà tù Lai
Châu được khởi công xây dựng vào năm 1901 do tên quan ba kỹ sư Pháp là Bóc Đê thiết kế. Đây là một công trình
được xây dựng kiên cố bằng xi măng, sắt thép, gạch đá. Công trình được xây dựng
quy mô theo hình chữ nhật với chiều dài một bên 79m, một bên 75m. Chiều rộng
một bên 42m, một bên 39m, tường dày từ 95cm đến 1,2m, cao trên 5m, lên trên mặt
tường có dựng các cột sắt để giăng dây thép gai chiếm khoảng 20cm, một bên dành
cho lính canh có thể đi lại trên mặt tường. Bốn góc của bốn bức tường là bốn
bốt gác. Giữa sân của nhà tù chính có
một tháp canh cao hơn bốn bốt gác ở các góc tường bao nhà tù, nơi đây có treo
kẻng để báo cho tù nhân tập trung và cũng là nơi để quan sát các hoạt động của
tù nhân.
Nhà tù Lai Châu có
06 dãy nhà giam, nằm ở hai bên tường và cuối tường. Mỗi dãy nhà dài khoảng 32m,
rộng khoảng 7m, bao gồm cả hành lang hiên rộng 1,8m, mỗi một phòng giam rộng
khoảng 7m2, cao hơn 3,2m. Trong phòng giam có cùm chân và các dây
xích dài để xích tay.
Nhà tù Lai Châu được
bọn Pháp và tay sai gọi là "Trại
giam địa đạo" vì trại giam ở gần ngay cạnh khu nghĩa địa,
nên khi có phạm nhân nào trốn trại bọn chúng bắt được là đem ra nghĩa địa xử
bắn và chôn luôn. Đây còn được ví như "Địa
ngục trần gian" chỉ có lối vào chứ không có lối ra. Ngoài 6 dãy nhà
giam của phạm nhân, ở phía bên phải của trại giam tính từ cổng vào còn có một
nhà hai tầng với 06 phòng mỗi phòng rộng chừng 25m2. Đây là nơi làm
việc của bọn quan cai ngục Pháp và Việt Nam.
Mặc dù thực dân và
tay sai đã chú trọng củng cố, xây dựng lực lượng, ra sức bắt bớ, sát hại người yêu nước song
không vì thế mà phong trào yêu nước tại Lai Châu bị dập tắt. Trái lại, tội ác
của chúng chẳng những không khuất phục được tinh thần yêu nước của nhân dân và
chiến sĩ cách mạng mà càng thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh quyết liệt. Bằng
chứng điển hình cho tinh thần yêu nước quật cường của nhân dân Lai Châu được thể
hiện bằng cuộc bạo động của những người tù tại nhà tù Lai Châu do Cai Vợi lãnh
đạo vào tháng 01/1927 nhằm đáp trả cho tội ác của thực dân và tay sai. Những người
tù ở đây đã nổi dậy cướp súng của lính gác rồi đánh chiếm các trại lính nhỏ đồn
thấp, sau đó tiến lên các trại lính lớn ở Đồi Cao - Mường Lay. Tại đây đã diễn
ra những cuộc chiến đấu rất ngoan cường với bọn lính Khố đỏ, Khố xanh, bọn Tây
dương, gây cho địch nhiều tổn thất lớn. Sau 48 giờ chiến đấu anh dũng, phần lớn
anh em tù đã hy sinh hoặc bị bắt, còn 72 người với 50 khẩu súng đã trốn lên
vùng cao. Địch tiếp tục truy lùng, sau hai tháng bọn chúng mới ám hại được số
anh em này.
Sau khi cuộc khởi
nghĩa của Cai Vợi (1927) bị dập tắt, thực dân Pháp đã đưa máy chém từ Hà Nội
lên đễ khủng bố tinh thần của những người dân yêu nước. Máy chém được chúng đặt
cách nhà tù 300m và nơi đây được gọi là Khu máy chém. Ngoài ra, tại nhà tù Lai
Châu còn có khu hầm ngầm ở gần ngay cạnh khu làm việc của quan 3 Pháp (là tên
đứng đầu bộ máy cai trị của tỉnh Lai Châu). Cửa hầm cao 1,2m, rộng 1m và đến
nay vẫn còn khá nguyên vẹn. Theo các cụ lão thành cách mạng thì đường hầm có
hai đường một đường ra Sông Đà và một đường ra Sân bay.
Sau ngày giải
phóng thị xã Lai Châu, di tích nhà tù Lai Châu hết vai trò bắt bớ, giam cầm,
khủng bố tinh thần người yêu nước nên đã dần trở thành phế tích, bị phá bỏ dần
để phục vụ cho việc xây dựng những công trình khác. Năm 1963, khu quần thể di
tích đã bắt đầu bị phá bỏ, di tích nhà tù chỉ còn trơ lại một số đoạn tường
ngắn và chân móng xung quanh bốn mặt của di tích. Năm 1974, do yêu cầu đòi hỏi
về mặt bằng quy hoạch xây dựng của Ty lương thực, nhiều đoạn tường lại bị đập
phá tiếp, một số đoạn đã biến mất, một số đoạn còn móng thì bị các công trình
xây dựng xây tiếp lên trên mặt di tích. Năm 1998 trường trung học cơ sở Sông Đà
tiếp quản diện tích đất di tích nhà tù Lai Châu từ Sở lương thực, một lần nữa
di tích nhà tù bị nhà trường cho san ủi để xây dựng các phòng học. Hiện nay, vì
dòng điện tương lai của đất nước, di tích nhà tù Lai Châu lại một lần nữa bị
san lấp dưới lòng hồ Thủy điện Sơn La tại thị xã Mường Lay tỉnh Điện Biên.
Mặc dù đã không
còn nhiều dấu tích cho các thế hệ con cháu được biết đến về một thời khốc liệt
song quần thể di tích nhà tù Lai Châu vẫn chứa đựng những giá trị lịch sử vô
cùng to lớn. Trước hết, khu quần thể di tích nhà tù Lai Châu là bằng chứng sống
ghi dấu tội ác vô cùng dã man của bọn thực nhân Pháp cướp nước cùng bè lũ tay
sai bán nước đối với đồng bào yêu nước và các chiến sĩ cách mạng.
Thứ hai, khu di
tích là nơi ghi dấu tinh thần đấu tranh vô cùng anh dũng, bất khuất của nhân
dân các dân tộc tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh Điện Biên và Lai Châu) với người đại
diện ưu tú nhất là Cai Vợi và những người tù trong cuộc khởi nghĩa năm 1927.
Đây sẽ là tấm gương sáng để các thế hệ mai sau học tập và làm theo để sống làm
sao cho xứng đáng với sự hy sinh của các thế hệ cha ông đi trước.
Di tích nhà tù Lai
Châu hiện nay đã trở thành phế tích. Việc phục dựng lại di tích này khó có thể
thực hiện được vì di tích đã nằm trong vùng ngập của lòng hồ thủy điện Sơn La
tại thị xã Mường Lay. Do đó phải đắp
sa bàn toàn bộ khu quần thể di tích nhà tù Lai Châu theo tỉ lệ
phù hợp tại kho lòng hồ thủy điện Sơn La (tại tỉnh Điện Biên) nhằm tạo điều
kiện cho mọi tầng lớp công chúng có thể đến tham quan, nghiên cứu. Những hiện
vật còn lưu giữ được cũng như thông tin về một giai đoạn lịch sử sẽ thu hút công chúng đến tham quan, nghiên cứu,
qua đó giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng đối với các thế hệ mai sau.
Ngọc Mai
Bảo tàng tỉnh