Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp đầy cam go, khu vực Tây Bắc nói chung và tỉnh Lai Châu (bao gồm cả Điện Biên ngày nay) có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, quân sự, quốc phòng và dân tộc.
Trước yêu cầu phát triển phong trào cách mạng trong vùng, ngày 10 tháng 10 năm 1949, Ban Thường vụ Liên khu ủy X quyết định thành lập Ban Cán sự Đảng tỉnh Lai Châu – tổ chức tiền thân của Đảng bộ tỉnh Điện Biên ngày nay. Ban Cán sự gồm ba đồng chí: Nguyễn Bá Lạc (bí danh Trần Quốc Mạnh) làm Trưởng ban; các đồng chí Hoàng Đông Tùng và Tạ Nhật Tựu (bí danh Hoàng Hoa Thưởng) làm ủy viên. Đây là sự kiện đánh dấu bước ngoặt trong việc xây dựng tổ chức Đảng tại vùng cao Tây Bắc, đưa phong trào cách mạng địa phương bước sang thời kỳ phát triển mới – có tổ chức lãnh đạo trực tiếp của Đảng.
Chỉ hai tháng sau, ngày 2/12/1949, Ban Cán sự tổ chức Hội nghị mở rộng tại bản Lướt (xã Mường Kim, huyện Than Uyên, nay thuộc tỉnh Lai Châu) và chính thức thành lập Chi bộ Đảng tỉnh Lai Châu đầu tiên, gồm 20 đảng viên (18 chính thức, 2 dự bị), đồng chí Trần Quốc Mạnh được bầu làm Bí thư. Chi bộ này là hạt nhân chính trị đầu tiên của Đảng tại khu vực Tây Bắc, có nhiệm vụ tuyên truyền, vận động quần chúng, xây dựng cơ sở cách mạng, phát triển tổ chức Đảng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, chuẩn bị lực lượng cho các chiến dịch quân sự và chính trị lớn.
Trong những năm 1950–1954, Ban Cán sự Đảng đã lãnh đạo phong trào đấu tranh chính trị kết hợp vũ trang ở Lai Châu – Điện Biên, đặc biệt trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Tại thời điểm này, tuy tổ chức Đảng tại Điện Biên chưa có đầy đủ cấp tỉnh như hiện nay, nhưng Ban Cán sự Đảng tỉnh Lai Châu đã kịp thời xây dựng cơ sở chính trị, phát triển lực lượng quần chúng, và tổ chức vận động toàn dân phục vụ chiến dịch. Các nhiệm vụ chủ yếu trong giai đoạn này là tuyên truyền, vận động nhân dân vùng cao ủng hộ kháng chiến, không hợp tác với địch, bảo vệ cán bộ cách mạng, che giấu lực lượng vũ trang; Huy động hàng chục ngàn lượt dân công gùi thồ, vận chuyển lương thực, đạn dược, quân nhu phục vụ chiến dịch; dẫn đường, mở đường, bảo vệ hậu cần: cho bộ đội, vận chuyển vũ khí qua rừng núi hiểm trở; tổ chức xây dựng căn cứ hậu phương vững chắc: Huy động dân công làm lán trại, bệnh viện dã chiến, kho tàng bí mật cho bộ đội chủ lực;
Với đặc thù là tỉnh miền núi biên giới, dân cư đa dạng về dân tộc, trình độ nhận thức còn chênh lệch, việc tập hợp, đoàn kết nhân dân phục vụ chiến dịch là thử thách rất lớn. Tuy nhiên, nhờ sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ địa phương, phong trào cách mạng đã lan tỏa mạnh mẽ. Đảng bộ đã gắn bó sâu sắc với đồng bào, cử cán bộ xuống cơ sở “ba cùng” với dân (cùng ăn, cùng ở, cùng làm), cảm hóa các già làng, trưởng bản; vận động đồng bào không theo giặc, không làm lính Pháp, mà tham gia vào bộ đội địa phương, dân quân du kích; tổ chức tuyên truyền bằng tiếng dân tộc, phát triển chi bộ, cảm hóa đảng viên là người dân tộc thiểu số. Từ đó, khối đại đoàn kết các dân tộc trong lòng núi rừng Tây Bắc được củng cố – chính là nền tảng chính trị – xã hội vững chắc cho chiến dịch lịch sử này.
Trong suốt chiến dịch Đảng bộ và nhân dân vùng Điện Biên đã hiến dâng sức người, sức của cho chiến dịch: Hơn 26.000 lượt dân công hỏa tuyến từ Điện Biên và các vùng lân cận; hàng ngàn tấn gạo, muối, lương thực được vận chuyển bằng sức người qua núi rừng hiểm trở; hàng ngàn cán bộ địa phương tham gia chỉ đạo tiếp tế, hướng dẫn đường đi, che giấu thương binh, vận động dân gùi hàng vào chiến trường.
Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 là thắng lợi chung của cả dân tộc, nhưng trong đó, có dấu ấn không thể phai mờ của tổ chức Đảng và nhân dân địa phương, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Cán sự Đảng tỉnh Lai Châu – tiền thân của Đảng bộ tỉnh Điện Biên. Sau Hiệp định Genève, Đảng bộ tiếp tục lãnh đạo xây dựng chính quyền cách mạng, tổ chức định cư, phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở vùng biên giới, đặc biệt trong giai đoạn trước và sau khi miền Nam được giải phóng (1975).
Ngày 26/11/2003, Quốc hội khóa XI thông qua Nghị quyết số 22/2003/QH11 về việc chia tách tỉnh Lai Châu thành hai tỉnh: Lai Châu mới và tỉnh Điện Biên. Nghị quyết có hiệu lực từ 01/01/2004, đánh dấu mốc lịch sử quan trọng: tỉnh Điện Biên chính thức được thành lập, đồng thời tổ chức Đảng bộ tỉnh Điện Biên được thành lập trên cơ sở kế thừa một phần tổ chức của Đảng bộ tỉnh Lai Châu trước đó. Kể từ đây, Đảng bộ tỉnh Điện Biên chính thức có hệ thống tổ chức độc lập, trực thuộc Trung ương Đảng, với nhiệm vụ lãnh đạo toàn diện các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, quốc phòng – an ninh trên địa bàn tỉnh.
Từ năm 2004 đến nay, Đảng bộ tỉnh đã tổ chức nhiều kỳ Đại hội (Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, XIII, XIV...) với tinh thần đổi mới, quyết liệt, sát thực tiễn. Đảng bộ đã đề ra nhiều nghị quyết, chủ trương đúng đắn, phát huy tiềm năng địa phương. Tốc độ tăng trưởng GRDP (giai đoạn 2004–2024) đạt trung bình từ 7–8%/năm, một số năm cao hơn mức bình quân vùng trung du và miền núi phía Bắc. Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp giảm dần, trong khi dịch vụ, thương mại và du lịch từng bước phát triển mạnh. Nhiều công trình giao thông chiến lược được như Cảng hàng không Điện Biên (mở rộng và đưa vào hoạt động năm 2023), Quốc lộ 279, Quốc lộ 12, Quốc lộ 6; các tuyến đường nông thôn, giao thông biên giới đã được đầu tư đồng bộ, tạo đột phá trong kết nối vùng và thúc đẩy phát triển du lịch, giao thương. Văn hóa, xã hội phát triển, đời sống nhân dân cải thiện; tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh và bền vững; giáo dục đào tạo được ưu tiên đầu tư; y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm; Văn hóa, du lịch có bước phát triển rõ rệt. Quốc phòng an ninh được giữ vững, biên giới ổn định, trong đó tập trung xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc; chủ động giữ gìn an ninh trật tự vùng biên giới, tăng cường đối ngoại biên phòng, giữ ổn định chính trị.
Sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo (1986–2025), Đảng bộ và Nhân dân các dân tộc tỉnh Điện Biên đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng và toàn diện trên các lĩnh vực, đặc biệt, sau khi tỉnh Điện Biên được tái lập vào năm 2004, những thành quả đạt được càng khẳng định rõ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, sáng tạo và phù hợp với thực tiễncủa Đảng bộ tỉnh. 76 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng bộ tỉnh Điện Biên đã vượt qua muôn vàn gian khó, vững vàng lãnh đạo nhân dân vượt qua các thử thách lịch sử, khẳng định vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị của hệ thống chính trị địa phương. Trong thời kỳ mới, Đảng bộ tỉnh tiếp tục giữ vững tinh thần cách mạng, bản lĩnh chính trị vững vàng, quyết tâm xây dựng Điện Biên phát triển nhanh, bền vững, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.