Đến năm 1954, sau chín năm trường kỳ kháng chiến là chín năm Đảng ta chèo lái con thuyền cách mạng vững vàng vượt qua mọi sóng gió. Từ nền độc lập non trẻ đến Chiến thắng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là yếu tố cốt lõi làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã xóa bỏ chế độ phong kiến kéo dài hàng nghìn năm, đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Ngay từ những ngày đầu, nước Việt Nam non trẻ phải đối mặt với muôn vàn khó khăn: giặc đói, giặc dốt, thù trong giặc ngoài, cùng âm mưu tái xâm lược của thực dân Pháp. Trong bối cảnh đó, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành nhân tố quyết định vận mệnh dân tộc.

Với đường lối đúng đắn, sát với thực tiễn, Đảng ta đã nhanh chóng củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, từng bước giải quyết nạn đói, nạn dốt, tổ chức tổng tuyển cử và thiết lập chính quyền các cấp, đặt nền móng cho thể chế dân chủ mới.

Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược, Đảng ta lãnh đạo toàn dân bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp với phương châm “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh và tranh thủ quốc tế”. Từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược, tinh thần “toàn dân đánh giặc” lan rộng, hình thành thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, trong đó mỗi người dân đều là một chiến sĩ. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy, đặc biệt là vai trò chỉ huy xuất sắc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhiều chiến dịch lớn đã được tổ chức thành công, từng bước phá tan âm mưu chiến lược của thực dân Pháp như: Trong Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông (năm 1947), khi quân Pháp tấn công căn cứ địa Việt Bắc hòng “đánh nhanh, thắng nhanh”, Đảng ta xác định đây là trận đánh sống còn bảo vệ cơ quan đầu não của cách mạng. Dưới sự lãnh đạo sát sao của Trung ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Quân ủy, với sự chỉ huy trực tiếp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, quân dân ta đã anh dũng chiến đấu, làm thất bại kế hoạch chiến lược của địch. Chiến thắng này giữ vững căn cứ địa kháng chiến, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng; Chiến dịch Biên giới Thu - Đông (năm 1950), do Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ huy theo chỉ đạo chiến lược của Đảng. Quân ta đã tiêu diệt và làm tan rã một lực lượng lớn quân địch, giải phóng một vùng rộng lớn ở Đông Bắc, mở rộng hành lang chiến lược ra biên giới Việt - Trung, khai thông tuyến tiếp vận quốc tế và tạo bước ngoặt đưa kháng chiến từ phòng ngự sang phản công. Chiến thắng trong Chiến dịch này đánh dấu sự phát triển vượt bậc trong tư duy chiến lược của Đảng và là một bước chuyển lịch sử về thế trận cách mạng; Chiến dịch Hòa Bình (năm 1951 - 1952), trước âm mưu của địch muốn kiểm soát khu vực chiến lược Hòa Bình để chia cắt vùng tự do, Trung ương Đảng đã kịp thời chỉ đạo phản công. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã lãnh đạo các đơn vị của ta đánh vào nhiều hướng, buộc địch rút lui, phá vỡ thế chia cắt của chúng. Chiến thắng đã thể hiện rõ khả năng điều hành tác chiến linh hoạt, bản lĩnh chỉ đạo chiến trường của Đảng và Tổng Tư lệnh; Chiến dịch Tây Bắc (năm 1952) và Thượng Lào (năm 1953), với mục đích phá thế bao vây, mở rộng vùng giải phóng, tạo hành lang chiến lược liên kết ba nước Đông Dương, Đảng chỉ đạo tiến hành các chiến dịch mở rộng địa bàn. Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ huy, đánh vào sườn yếu của địch, giải phóng nhiều vùng rộng lớn, đồng thời góp phần nâng cao vị thế quốc tế của cách mạng Việt Nam. Với những thắng lợi vang dội trên đẩy quân Pháp vào thế bị động chiến đấu, tạo thế và lực cho quân ta tiến tới phản công chiến lược.

Đỉnh cao của cuộc kháng chiến chống Pháp là Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954, đây là chiến công mang tầm vóc thời đại, không chỉ là thắng lợi quân sự, mà còn là minh chứng sinh động cho tài thao lược, bản lĩnh chính trị và trí tuệ chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trước âm mưu xây dựng Tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương tại Điện Biên Phủ, Đảng ta đã xác định đây là nơi quyết chiến chiến lược, từ đó đề ra kế hoạch tác chiến chặt chẽ, sáng tạo. Việc chuyển phương châm từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc tiến chắc” thể hiện sự linh hoạt, sáng suốt và kiên định mục tiêu giành thắng lợi của Đảng ta.

Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 là biểu tượng của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng: Hàng chục vạn dân công, hàng vạn thanh niên xung phong, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương cùng hậu phương lớn mạnh đã hình thành một mạng lưới phối hợp chiến đấu nhịp nhàng và hiệu quả, khiến kẻ thù hoàn toàn bất ngờ và thất bại. Lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên nóc hầm tướng Đờ Cát không chỉ đánh dấu sự sụp đổ của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, mà còn là sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 đều khẳng định một chân lý: Mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và kiên cường của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng đã quy tụ, tổ chức, định hướng cho khối đại đoàn kết dân tộc; phát huy sức mạnh toàn dân; kết hợp khéo léo giữa đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao; giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong kháng chiến cũng như xây dựng hòa bình, Đảng luôn là ngọn cờ tập hợp trí tuệ, lòng yêu nước và khát vọng độc lập, tự do của nhân dân.

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã lùi xa hơn 70 năm nhưng những bài học về đoàn kết, tự lực tự cường, lòng yêu nước và vai trò lãnh đạo của Đảng vẫn còn nguyên giá trị. Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước tiếp tục công cuộc đổi mới, phát triển và hội nhập, mỗi cán bộ, đảng viên và người dân cần tiếp tục phát huy tinh thần yêu nước, giữ vững niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, đoàn kết, vượt qua mọi khó khăn, thử thách để xây dựng một nước Việt Nam phát triển, giàu mạnh, hùng cường.


Đánh giá:

lượt đánh giá: , trung bình:



 Liên kết website
Thống kê: 11.111.898
Online: 82