Cách đây đúng 70 năm, trong một ngôi nhà nhỏ ở làng Vạn Phúc, Hà Đông, tỉnh Hà Tây (nay là thành phố Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến trong điều kiện đất nước ta gặp nhiều khó khăn. 20 giờ 30 phút tối 19/12/1946, tiếng súng phát ra từ Pháo đài Láng đã mở đầu cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ, oanh liệt của Nhân dân ta.
Sự kiện cách mạng tháng 8/1945 là bước nhảy vọt trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Ta lần lượt giành thắng lợi trong các cuộc khởi nghĩa đánh đổ chính quyền phát xít Nhật từ Cao Bằng, Bắc Kạn, Yên Bái, ... đến Huế, Sài Gòn. Lần đầu tiên giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền trong cả nước. Thành công của cách mạng tháng 8 đã dẫn tới sự ra đời nước Việt Nam dân chủ công hòa đánh dấu bằng sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình ngày 02/9/1945, chấm dứt chế độ thực dân phong kiến ở nước ta, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên nhân dân ta làm chủ vận mệnh của mình để thực hiện độc lập, tự do, bình đẳng và hạnh phúc.
Sau ngày quốc khánh, chính quyền non trẻ ra đời, ta liên tiếp gặp những khó khăn thử thách. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa rơi vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” khi phải một lúc đối phó với ba loại giặc “giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm”. Trong điều kiện ta từng bước thực hiện các chính sách, biện pháp để đối phó chống thù trong giặc ngoài, giải quyết những khó khăn trước mắt, cải thiện đời sống nhân dân thì đến cuối tháng 9 cùng năm, Thực dân Pháp núp bóng quân Anh quay trở lại xâm lược Việt Nam lần thứ hai, gây hấn tại nhiều địa điểm trong thành phố Sài Gòn. Khắp nơi trong cả nước đã dấy lên các phong trào cách mạng mạnh mẽ, kiên quyết đánh đuổi giặc ngoại xâm, bắt đầu trường kỳ kháng chiến oanh liệt đánh đuổi Thực dân Pháp khỏi bờ cõi nước nhà.
Ngày 06/01/1946, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên bầu ra Quốc hội được tổ chức. Mọi công dân từ 18 tuổi trở lên không phân biệt nam nữ, được hưởng quyền bầu cử vào Quốc hội, hơn 90% tổng số cử tri đã đi bỏ phiếu. Ngay trong vùng có chiến tranh, đồng bào vẫn tìm cách tham gia bầu cử. Tháng 3/1946, ta ký với Pháp bản Hiệp định Sơ bộ với nội dung tạm thời hòa hoãn, đẩy nhanh quân Tưởng ra khỏi miền Bắc, nước Pháp công nhận nước Việt Nam dân chủ là một nước tự do có Chính phủ. Tuy nhiên trong khi ta nghiêm chỉnh thực hiện những điều khoản của Hiệp định thì Pháp lại vi phạm bằng một loạt các cuộc hành quân bình định và đánh úp nhiều vị trí bộ đội ta ở miền Nam nhằm mở rộng điểm đóng quân, tổ chức chính quyền Ngụy, mở rộng chiến tranh tiến tới chiếm đóng toàn bộ nước ta. Nhân dân ta kiên quyết đấu tranh trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự đòi Pháp phải chấp hành thỏa ước. Tại Nam Bộ, quân dân Nam Bộ khẩn trương chấn chỉnh tổ chức, củng cố lực lượng, kịp thời nắm thời cơ nổi dậy trừ gian, khôi phục chính quyền nhân dân, tiến hành chiến tranh du kích rộng khắp. Khí thế hào hùng của những ngày khởi nghĩa tháng tám một lần nữa lại diễn ra.
Trong điều kiện vừa kháng chiến tại miền Nam ta củng cố chính quyền, xây dựng lực lượng, sẵn sàng đối phó với cuộc chiến tranh có thể lan rộng ra cả nước. Đúng như dự đoán, Pháp nhanh chóng triển khai lực lượng lên phía Lạng Sơn, Tây Bắc, Móng Cái, Bắc Ninh, kết hợp với bọn phản động cách mạng càn quét làng mạc, thị trấn, đàn áp dân lành. Hành động của Pháp ngày càng láo xược, lộ rõ âm mưu thôn tính nước ta; ta đã nhiều lần gửi thư đề nghị tìm giải pháp "cải thiện bầu không khí" nhưng đều bị khước từ. Ta buộc phải tiến hành kháng chiến, kết thúc thời gian hòa hoãn với Pháp.
Cuối tháng 11/1946, quân Pháp đánh ra Bắc, chiếm Hải Phòng, thị xã Lạng Sơn và Đà Nẵng. Tại Hà Nội, ngày 17/12, chúng phá các công sự của quân dân thủ đô ở phố Hàng Bún - Yên Ninh, gây đổ máu ở khu vực cầu Long Biên, Cửa Đông. Một ngày sau, tướng Louis Morlière gửi cho Chính phủ Việt Nam tối hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài chính, giải tán lực lượng tự vệ, bàn giao quyền kiểm soát an ninh ở Hà Nội. Nếu các yêu cầu trên không được thực hiện, chậm nhất sáng 20/12/1946, quân Pháp sẽ hành động.
Xác định "không sớm thì muộn Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp", Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Toàn dân kháng chiến, nhấn mạnh đường lối kháng chiến là toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh. Cả nước chia thành 12 chiến khu, trong đó Hà Nội là chiến khu 11. Khu ủy, Ủy ban bảo vệ, Ban chỉ huy Mặt trận Hà Nội được thành lập.
Đầu tháng 12/1946, các kho tàng, xí nghiệp, cơ sở sản xuất vũ khí ở Hà Nội được chuyển về nông thôn, rừng núi, đề phòng chiến sự lan rộng. Các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận, Bộ Tổng chỉ huy di chuyển lên An toàn khu Việt Bắc. Hà Nội biến thành trận địa, lực lượng vũ trang gồm 5 tiểu đoàn Vệ quốc đoàn, 4 trung đội pháo binh và Tự vệ chiến đấu ở thành Hoàng Diệu, Tự vệ thành đào hào, đục tường thông nhà nọ sang nhà kia, đắp ụ chiến đấu.
Cuộc kháng chiến trên phạm vi toàn quốc trong điều kiện Pháp đã dồn ta đến con đường cùng. Một loạt biến động từ sau cách mạng tháng 8, Quân đội nhân dân đã trưởng thành về chiến thuật, kỹ thuật và kinh nghiệm về chỉ huy và tác chiến. Ta tiếp tục đánh địch trên nhiều mặt trận tại Hà Nội, Nam Định, Huế, Đà Nẵng kết hợp với "phá hoại" để Thực dân Pháp không có cơ sở để lợi dụng, thực hiện âm mưu "dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam", "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh". Cũng trong thời gian này, các cơ quan lãnh đạo kháng chiến của Đảng lần lượt chuyển lên Việt Bắc, xây dựng căn cứ địa kháng chiến đồng thời tiếp tục triển khai thế trận chiến tranh toàn dân, toàn diện và lâu dài kết hợp với kiện toàn và củng cố chính quyền các cấp.
Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh Viết Lòi kếu gọi toàn quốc kháng chiến. Người nói: “Chúng ta muốn hoà bình, chúng bắt chúng ta nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa.
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên. Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ ngưới già, người trẻ, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt thì phải đứng lên chống thực dân Pháp. Ai có súng cầm súng, ai có gươm cầm gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân giờ cứu nước đã đến, ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước…”
Đáp lời kêu gọi cứu nước thiết tha của Chủ tịch Hồ Chí Minh, theo đường lối kháng chiến đúng đắn do Đảng vạch ra, Nhân dân cả nước đã đoàn kết, đồng lòng đứng lên giết giặc cứu nước với tinh thần "Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh". Đêm 19/12/1946, tiếng súng giết giặc tại Pháo đài Láng, thủ đô Hà Nội nổ những phát súng đầu tiên, mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc. Cùng với Hà Nội, quân và dân cả nước cũng đã vùng lên kháng chiến, giành được thắng lợi trên nhiều mặt trận, mở rộng vùng kiểm soát, lực lượng ngày một lớn mạnh và trưởng thành.
Qua 9 năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đã lập nên bao kỳ tích, đánh bại chủ nghĩa thực dân mà đội quân viễn chinh Pháp áp đặt tại các nước thuộc địa, trong đó đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp oanh liệt, buộc chúng phải ký Hiệp định Genever cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền của 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia và chấm dứt sự có mặt của Pháp tại ba nước Đông Dương sau gần 100 năm đô hộ. Cũng từ đó Việt nam trở thành ngọn đuốc soi đường, là kim chỉ nam cho phong trào giải phóng dân tộc để giành độc lập, tự do cho phong trào cách mạng thế giới./.